UEFA Europa League là gì và những thông tin xung quanh giải đấu này là điều không phải ai cũng biết, vì sự chú ý thường chỉ đổ dồn vào Champions League (Cúp C1 Châu Âu). Tuy vậy, giải đấu này cũng có cả một lịch sử dài và những điều thú vị nhất định. Hãy cùng Congdongfifa tìm hiểu về sân chơi cho các đội bóng nhỏ hơn tại Châu Âu này!
Nội dung chính
Europa League là gì?
Europa League có tên đầy đủ là UEFA Europa League (viết tắt là UEL), là giải đấu bóng đá thường niên cấp câu lạc bộ được Liên đoàn bóng đá Châu Âu (UEFA) tổ chức cho các câu lạc bộ bóng đá đủ điều kiện ở châu lục này. Điều kiện sẽ được xét dựa trên thành tích của các đội bóng trong các giải đấu quốc nội và các cúp quốc gia. Đây là giải đấu hạng hai của bóng đá cấp câu lạc bộ châu Âu, xếp dưới UEFA Champions League nên thường được gọi là Cúp C2.
Tổng quan về UEFA Europa League
Cơ quan tổ chức | Liên đoàn Bóng đá Châu Âu (UEFA) |
Năm thành lập | Năm 1971 (thay đổi thương hiệu vào năm 2009) |
Các tên gọi khác | Cúp UEFA, Cúp C3, Cúp C2 |
Khu vực | Châu Âu |
Số câu lạc bộ tham gia | 48 (trong vòng bảng) – sẽ có thêm 8 đội hạng 3 ở vòng bảng Champions League xuống chơi từ vòng loại trực tiếp
160 (tổng cộng cả vòng loại) |
Vô địch sẽ được tham gia | Siêu cúp Châu Âu (UEFA Super Cup)
Cúp C1 Châu Âu (UEFA Champions League) |
Giải đấu có liên quan | UEFA Champions League (giải đấu hạng 1)
UEFA Europa Conference League (giải đấu hạng 3) |
Đương kim vô địch | Chelsea (mùa bóng 2018-2019) |
Đội bóng thành công nhất | Sevilla (5 chức vô địch) |
Trang web | https://www.uefa.com/uefaeuropaleague/ |
Hình ảnh logo Europa League hiện nay
Giải Europa League trước đây có tên gọi là UEFA Cup, và đã sử dụng tên như hiện nay kể từ mùa giải 2009-2010, sau khi thay đổi thể thức thi đấu. Đối với việc xét các kỷ lục, Cup UEFA và Cup C2 được coi là cùng một giải đấu, còn việc thay đổi tên chỉ đơn giản là thay đổi thương hiệu.
Trước đây, Cup C2 cũ có tên là Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu (UEFA Cup Winners’ Cup), nhưng đến năm 1999, cúp này đã bị hủy bỏ và sáp nhập với UEFA Europa League. Kể từ mùa giải 2004-2005, vòng bảng đã được thêm vào trước giai đoạn vòng loại trực tiếp. Vào năm 2009, UEFA đã hợp nhất với UEFA Intertoto Cup, tạo ra một giải đấu lớn hơn, với vòng bảng được mở rộng và thay đổi tiêu chí đủ điều kiện, chính là Cup C2 của ngày nay.
Lịch sử Cúp C2: Nguồn gốc hình thành và phát triển
Cúp UEFA có tiền thân là Cúp Inter-Cities Fairs, một giải đấu bóng đá của châu Âu diễn ra từ năm 1955 đến năm 1971. Trong mùa giải đầu tiên diễn ra (1955-1958), số lượng đội bóng tham dự chỉ là 11 đội, còn đến mùa bóng cuối cùng vào mùa giải 1970-1971, con số này đã tăng lên là 64 đội. Do giải đấu này đã trở nên rất quan trọng đối với nền bóng đá châu Âu nên cuối cùng đã được UEFA tiếp quản và khởi động lại mùa giải tiếp theo, lấy tên là UEFA Cup.
Cup UEFA đầu tiên được chơi vào mùa giải 1971-1972, và trận Chung kết của mùa bóng này là trận Chung kết toàn Anh. Tottenham Hotspur đã vượt qua đội bóng đồng hương Wolverhampton Wanderers để giành chức vô địch đầu tiên của giải đấu mới này. Mùa giải kế tiếp, danh hiệu này đã được giữ lại nước Anh, lần này là Liverpool, sau khi đánh bại câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach của Đức trong trận Chung kết. Tuy thất bại trong trận Chung kết năm 1973 nhưng Gladbach đã giành chức vô địch Cúp UEFA năm 1975 và 1979, và lọt vào trận Chung kết một lần nữa vào năm 1980. Câu lạc bộ Feyenoord của Hà Lan đã giành được cúp vào năm 1974 sau khi đánh bại Tottenham Hotspur với tổng tỷ số là 4-2 (hòa 2-2 ở London và thắng 2-0 ở Rotterdam). Liverpool đã giành chức vô địch lần thứ hai vào năm 1976 sau khi đánh bại Club Brugge của Bỉ trong trận Chung kết.
Trong những năm 1980, câu lạc bộ IFK Göteborg của Thụy Điển (năm 1982 và 1987) và Real Madrid của Tây Ban Nha (năm 1985 và 1986) đã giành được hai chức vô địch. Câu lạc bộ Anderlecht của Bỉ đã lọt vào hai trận Chung kết liên tiếp, giành chức vô địch vào năm 1983 và thua Tottenham Hotspur vào năm 1984.
Năm 1989 chứng kiến sự bắt đầu kỷ nguyên thống trị của các câu lạc bộ Ý, khi Napoli của huyền thoại Diego Maradona đã đánh bại VfB Stuttgart của Đức. Thập niên 1990 khởi đầu với hai trận Chung kết toàn Ý, còn vào năm 1992, câu lạc bộ Torino của Ý đã thua trận Chung kết trước Ajax của Hà Lan do luật bàn thắng sân khách. Juventus đã giành chức vô địch lần thứ ba vào năm 1993 và năm sau đó, Inter Milan đã giữ chiếc cúp UEFA ở lại Ý.
Năm 1995 chứng kiến một trận Chung kết toàn Ý thứ ba, và Parma đã lên ngôi vô địch. Trận Chung kết duy nhất không có câu lạc bộ nào của Ý trong suốt thập niên đó là vào năm 1996. Hai năm tiếp sau đó, Inter Milan đều lọt vào trận Chung kết, để thua Schalke 04 của Đức vào năm 1997 trên chấm luân lưu và chiến thắng một trận Chung kết toàn Ý khác vào năm 1998, mang về chiếc cúp lần thứ ba chỉ trong 8 năm. Parma đã giành được chức vô địch vào năm 1999, và từ đó kỷ nguyên thống trị của Ý cũng chấm dứt. Tính cho đến năm 2019, không có một câu lạc bộ của Ý nào lọt vào Chung kết kể từ đó nữa.
Liverpool đã giành chức vô địch UEFA Cup lần thứ ba vào năm 2001. Năm 2002, Feyenoord giành chức vô địch lần thứ hai trong lịch sử câu lạc bộ sau khi đánh bại Borussia Dortmund của Đức 3-2 trong trận Chung kết diễn ra tại sân vận động của họ, sân De Kuip ở Rotterdam. Porto đã giành chức vô địch trong năm 2003 và 2011, và chiến thắng năm 2011 là trước đội bóng đồng hương Bồ Đào Nha Braga. Năm 2004, chiếc cúp trở lại Tây Ban Nha, lần này câu lạc bộ Valencia là nhà vô địch. Sau đó, Sevilla đã giành hai chức vô địch liên tiếp vào năm 2006 và 2007, trận Chung kết năm 2007 là với đội bóng đồng hương Espanyol.
Trước và sau thành công của Sevilla thì hai đội bóng của Nga, CSKA Moscow năm 2005 và Zenit Saint Petersburg năm 2008, đã giành được vinh quang. Một câu lạc bộ cũ khác của Liên Xô là Shakhtar Donetsk, đã giành chức vô địch vào năm 2009, trở thành đội bóng đầu tiên của Ukraine làm được điều này. Atlético Madrid của Tây Ban Nha đã giành hai chức vô địch trong 3 mùa, vào năm 2010 và 2012. Trận Chung kết năm 2012 là một trận Chung kết toàn Tây Ban Nha giữa họ và Athletic Bilbao.
Vào năm 2013, Chelsea trở thành đội đương kim vô địch Champions League đầu tiên giành được UEFA Cup/ Europa League vào mùa tiếp theo. Vào năm 2014, Sevilla đã giành được chiếc cúp thứ 3 trong 8 năm sau khi đánh bại Benfica trên chấm luân lưu. Chỉ một năm sau, vào năm 2015, Sevilla đã giành được chiếc cúp thứ tư của mình, và lập nên kỳ tích giành 3 chức vô địch liên tiếp khi đánh bại Liverpool trong trận Chung kết năm 2016, biến họ thành đội bóng thành công nhất trong lịch sử giải đấu với 5 danh hiệu.
Tên gọi trước kia của Cúp C2 là UEFA Cup
Kể từ mùa giải 2009-2010, Cúp UEFA được đổi tên thành UEFA Europa League. Đồng thời, UEFA Intertoto Cup, giải đấu hạng ba của UEFA, đã bị ngừng và sáp nhập vào Cup C2 Châu Âu mới.
UEFA đã xem xét tạo ra một giải đấu hạng ba mới kể từ năm 2015, vì họ tin rằng một giải đấu cấp thấp có thể đóng vai trò là phương tiện giúp các câu lạc bộ từ các quốc gia thành viên UEFA xếp hạng thấp hơn có cơ hội tiến lên mức độ cao hơn. Vào giữa năm 2018, các nguồn tin cho rằng UEFA đã đạt được thỏa thuận cho giải đấu mới này và vòng bảng Europa League gồm 48 đội sẽ được chia thành hai nửa. Nửa dưới sẽ tạo thành hạt nhân của giải đấu mới này.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 2018, UEFA đã thông báo rằng giải đấu mới sẽ được tạm gọi là “Europa League 2” hoặc chỉ là “UEL2”, nhưng sau đó đã đặt tên chính thức là “UEFA Europa Conference League” hoặc “UECL” và sẽ được bắt đầu vào chu kỳ thi đấu kéo dài 3 năm, từ 2021-2024. UEFA thông báo rằng giải đấu mới sẽ mang lại “nhiều trận đấu hơn cho nhiều câu lạc bộ và nhiều quốc gia hơn”.
Nhạc nền Europa League
Trước mỗi trận đấu tại giải bóng đá Cúp C2, tại sân vận động tổ chức trận đấu và trước mỗi chương trình truyền hình phát sóng một trận đấu tại cúp Europa, một đoạn nhạc nền sẽ được phát để mở đầu cho giải đấu này.
Bài nhạc nền đầu tiên của giải đấu do nhạc sĩ Yohann Zveig sáng tác và được công ty Paris Opera thu âm lại vào đầu năm 2009. Bản nhạc nền sau khi UEFA Cup được đổi tên thành UEFA Europa League đã lần đầu tiên được công bố tại Trung tâm hội nghị Grimaldi vào ngày 28 tháng 8 năm 2009 trước lễ bốc thăm vòng bảng mùa giải 2009.
Một bài nhạc nền mới đã được nhạc sĩ Michael Kadelbach sáng tác và được thu âm tại Berlin. Bản nhạc này đã được công bố như một phần của việc thay đổi thương hiệu giải đấu vào đầu mùa giải 2015-2016. Một bản nhạc nền mới do MassiveMusic tạo ra đã được sáng tác cho đầu mùa giải 2018-2019.
Thể thức thi đấu giải Europa League
Kể từ mùa giải 2004-2005, giải đấu này đã có thêm vòng bảng, còn trước đó đều chỉ là theo thể thức loại trực tiếp có lượt đi và lượt về, bao gồm cả trận chung kết. Bắt đầu với mùa giải 1997-1998, trận Chung kết chỉ có một lượt, nhưng tất cả các trận khác vẫn là hai lượt. Khi được sáp nhập cùng với UEFA Intertoto Cup, vòng bảng có nhiều đội hơn và điều kiện tham dự cũng được thay đổi. Hãy cùng tìm hiểu về thể thức thi đấu của Cúp C2.
Điều kiện tham dự Europa League là gì?
Điều kiện tham gia Cúp C2 cũng dựa theo hệ số của UEFA giống như với Champions League. Các vòng đấu loại càng về sau sẽ được dành cho các quốc gia thành công hơn. Mỗi quốc gia sẽ có các suất dự Europa League (3 suất) ngoại trừ các trường hợp sau đây:
- Các quốc gia xếp hạng 52 và 53 (Andorra và San Marino trong mùa giải 2013-2014) sẽ chỉ có hai suất.
- Quốc gia xếp hạng 54 (Gibraltar trong mùa giải 2014-2015) sẽ chỉ có một suất.
- Liechtenstein, do không có giải vô địch quốc gia mà chỉ có cúp quốc gia nên chỉ đội vô địch cúp mới được dự Cup C2.
Thông thường, ở mỗi quốc gia, 3 suất này sẽ được trao cho đội vô địch cúp quốc gia và các đội xếp ngay dưới vị trí đủ điều kiện dự Champions League tại các giải vô địch quốc gia. Tuy nhiên, có một vài quốc gia có những trường hợp ngoại lệ. Ví dụ như Giải vô địch quốc gia Bỉ sẽ dành một suất dự Cúp C2 Châu Âu cho đội thắng trận đấu play-off giữa đội ở giải hạng nhất và đội ở giải hạng hai. Một số quốc gia thì ngoài cúp quốc gia chính còn có thêm một cúp khác nữa (ví dụ như ở Anh ngoài FA Cup còn có Cúp Liên đoàn – EFL Cup) nên sẽ được thêm một suất dự Cup C2 Châu Âu. Tuy nhiên, hiện điều này chỉ áp dụng cho Anh và Pháp.
Vòng loại Europa League
Một đội bóng có thể đủ điều kiện tham dự các Cúp Châu Âu thông qua nhiều hơn một luồng. Trong mọi trường hợp, nếu một câu lạc bộ đủ điều kiện tham gia UEFA Champions League thì vị trí tham dự Champions League sẽ được ưu tiên và câu lạc bộ đó sẽ không tham dự UEFA Europa League.
Vị trí dự giải bóng đá Cúp C2 sẽ được chuyển lại cho một câu lạc bộ khác hoặc bỏ trống nếu vượt quá giới hạn tối đa của số đội tham dự các Cúp Châu Âu. Nếu một đội đủ điều kiện thi đấu ở châu Âu thông qua cả việc giành cúp quốc gia và qua giải đấu quốc nội thì vị trí dự Cup C2 dư ra sẽ thuộc về đội xếp hạng cao nhất tại giải quốc nội chưa đủ điều kiện để thi đấu ở châu Âu, tùy thuộc vào quy tắc của quốc gia đó, hoặc bỏ trống nếu đã vượt quá giới hạn số đội dự cúp Châu Âu.
Xem thêm: Giải cup C1 là gì? Tìm hiểu giải UEFA Champions League chi tiết và đầy đủ nhất
3 quốc gia xếp hạng cao nhất có thể đủ điều kiện cho nhận được suất thứ tư nếu cả hai đội đương kim vô địch Champions League và Europa League đều từ quốc gia này và không đủ điều kiện để dự Cúp châu Âu thông qua vị trí tại giải vô địch quốc nội. Trong trường hợp này, đội xếp thứ tư tại giải vô địch quốc gia đó sẽ tham dự giải bóng đá Europa League Cup chứ không được dự Champions League.
Suất dự Cúp C2 của nước Anh sẽ dành cho đội vô địch FA Cup, vô địch EFL Cup và đội xếp thứ 5, 6 tại Premier League
Gần đây hơn, các câu lạc bộ bị loại khỏi vòng loại và vòng bảng Champions League cũng có thể tham dự UEFA Europa League, ở các vòng khác nhau. Trước đây, các đội bóng vô địch Europa League sẽ đủ điều kiện để tham dự mùa sau, nhưng kể từ năm 2015, họ sẽ đủ điều kiện để được lên chơi ở Champions League. Từ năm 1995 đến 2015, có 3 giải đấu đã được thêm một suất thông qua bảng xếp hạng Fair Play của UEFA.
Hệ số UEFA đã được giới thiệu vào năm 1980 và cho đến năm 1999, các quốc gia thành công hơn sẽ nhận được nhiều suất tham dự Europa League hơn. Có 3 quốc gia được 4 suất tham dự, 5 quốc gia có 3 suất, 13 quốc gia có hai suất và 11 quốc gia chỉ có một suất. Từ năm 1999, một hệ thống tương tự đã được sử dụng cho UEFA Champions League. Trước năm 1980, Cúp UEFA sử dụng các tiêu chí của Fairs Cup.
Vòng bảng Europa League
Cúp Europa League được bắt đầu với vòng bảng gồm 48 đội, được chia thành 12 bảng, mỗi bảng có 4 đội. Khi bốc thăm chia bảng, Ban Tổ chức sẽ phân các đội ra thành các nhóm hạt giống, ngoài ra, các đội tới từ cùng một quốc gia sẽ không được nằm cùng bảng đấu với nhau. Vòng bảng diễn ra từ tháng 9 đến tháng 12.
Vòng bảng sẽ diễn ra theo thể thức vòng tròn 2 lượt, mỗi đội sẽ thi đấu 6 trận, gặp 3 đội còn lại ở sân nhà và sân khách. Đội đầu bảng và nhì bảng từ mỗi bảng sẽ được đi tiếp vào vòng loại trực tiếp, còn hai đội cuối bảng sẽ chính thức bị loại. Tổng cộng sẽ có 24 đội từ vòng bảng được bước vào vòng loại trực tiếp.
Vòng loại trực tiếp Europa League
Ngoài 12 đội đầu bảng và 12 đội nhì bảng, sẽ có 8 đội xếp hạng 3 ở vòng đấu bảng Champions League tham dự cùng ở vòng loại trực tiếp, tổng cộng là 32 đội. Ban Tổ chức sẽ bốc thăm để phân cặp đấu.
Vòng loại trực tiếp diễn ra lượt đi và lượt về, ngoại trừ trận Chung kết. Ở vòng đấu này sử dụng luật bàn thắng sân khách đối với những trận đấu có kết quả hòa, đội nào ghi được nhiều bàn thắng hơn ở của đối phương sẽ là đội được đi tiếp. Trận Chung kết thường diễn ra vào tháng 5, vào ngày thứ Tư, trước trận Chung kết Champions League 10 ngày.
Cách phân bổ các suất dự Europa League
Các đội bóng được tham dự giải bóng đá Cup C2 sẽ được phân bổ vào các vòng như sau (đây là cách hiện đang được áp dụng cho tới mùa bóng 2020-2021, khi UEFA chưa đưa giải đấu UEFA Europa Conference League vào thi đấu):
Đội được xếp thẳng vào vòng thi đấu | Đội được thi đấu do đã vượt qua vòng trước | Đội rơi xuống từ Champions League | ||
Vòng sơ loại
(16 đội) |
– 6 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 50-55
– 6 đội á quân ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 49-54 – 4 đội hạng 3 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 48-51 |
|||
Vòng loại thứ nhất
(94 đội) |
– 25 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 25-49
– 30 đội á quân ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 18–48 (ngoại trừ Liechtenstein) – 31 đội hạng 3 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 16-47 (ngoại trừ Liechtenstein) |
8 đội vượt qua Vòng sơ loại | ||
Vòng loại thứ hai | Nhóm những đội vô địch (20 đội) | – 17 đội thua ở Vòng loại thứ nhất Champions League
– 3 đội thua từ Vòng sơ loại Champions League |
||
Nhóm những đội không vô địch
(74 đội) |
– 7 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 18-24
– 2 đội á quân ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 16-17 – 3 đội hạng 3 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 13-15 – 9 đội hạng 4 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 7-15 – 2 đội hạng 5 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 5-6 (với giải Pháp là đội vô địch Cúp Liên đoàn) – 4 đội hạng 6 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 1-4 (với giải Anh là đội vô địch Cúp Liên đoàn) |
47 đội vượt qua Vòng loại thứ nhất | ||
Vòng loại thứ ba | Nhóm những đội vô địch
(20 đội) |
10 đội chiến thắng từ Vòng loại thứ hai nhóm vô địch | 10 đội thua từ Vòng loại thứ hai Champions League nhóm vô địch | |
Nhóm những đội không vô địch
(52 đội) |
– 5 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 13-17
– 6 đội hạng 3 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 7-12 – Đội hạng 4 ở giải quốc nội từ quốc gia xếp hạng 6 |
37 đội chiến thắng từ Vòng loại thứ hai nhóm không vô địch | 3 đội thua từ Vòng loại thứ hai Champions League nhóm không vô địch | |
Vòng Play-off | Nhóm những đội vô địch
(16 đội) |
10 đội chiến thắng từ Vòng loại thứ ba nhóm vô địch | 6 đội thua từ Vòng loại thứ ba Champions League nhóm vô địch | |
Nhóm những đội không vô địch
(26 đội) |
26 đội chiến thắng từ Vòng loại thứ ba nhóm không vô địch | |||
Vòng bảng
(48 đội) |
– 12 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 1-12
– Đội hạng 4 ở giải quốc nội từ quốc gia xếp hạng 5 – 4 đội hạng 5 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 1-4 |
21 đội chiến thắng từ Vòng Play-off | – 6 đội thua từ Vòng Play-off Champions League
– 4 đội thua từ Vòng loại thứ ba Champions League nhóm không vô địch |
|
Vòng loại trực tiếp
(32 đội) |
– 12 đội đầu bảng từ Vòng bảng
– 12 đội nhì bảng từ Vòng bảng |
8 đội hạng 3 từ vòng bảng Champions League |
Việc tổ chức UEFA Europa Conference League (UECL) từ năm 2021 sẽ phân tách các đội xếp hạng thấp hơn tại Europa League để cho họ cơ hội cạnh tranh cao hơn. Do phần lớn những đội bóng tham gia UEFA Cup hiện tại sẽ chuyển xuống tham dự UECL, thể thức Europa League sẽ đơn giản đi đáng kể và sẽ tập trung chủ yếu quanh vòng bảng. Cũng sẽ có thêm một vòng đấu loại trực tiếp sơ bộ trước vòng đấu loại trực tiếp chính thức để cho phép các đội đứng thứ ba ở vòng bảng Champions League có thể xuống chơi tại Cúp C2 Châu Âu mà vẫn đảm bảo vòng loại trực tiếp chỉ có tổng số 16 đội. Cụ thể việc phân bổ như sau:
Đội được xếp thẳng vào vòng thi đấu | Đội được thi đấu do đã vượt qua vòng trước | Đội rơi xuống từ Champions League | ||
Vòng loại thứ ba | Nhóm những đội vô địch
(10 đội) |
10 đội thua từ Vòng loại thứ hai Champions League nhóm vô địch | ||
Nhóm những đội không vô địch
(6 đội) |
3 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 13-15 | 3 đội thua từ Vòng loại thứ hai Champions League nhóm không vô địch | ||
Vòng Play-off
(20 đội) |
6 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 7-12 | – 5 đội chiến thắng từ Vòng loại thứ ba nhóm vô địch
– 3 đội chiến thắng từ Vòng loại thứ ba nhóm không vô địch |
6 đội thua từ Vòng loại thứ ba Champions League nhóm vô địch | |
Vòng bảng
(32 đội) |
– 6 đội vô địch cúp quốc gia từ các quốc gia xếp hạng 1-6
– Đội hạng 4 ở giải quốc nội từ quốc gia xếp hạng 5 – 4 đội hạng 5 ở giải quốc nội từ các quốc gia xếp hạng 1-4 – Đội đương kim vô địch UEFA Europa Conference League |
10 đội chiến thắng từ Vòng Play-off | – 4 đội thua từ Vòng Play-off Champions League nhóm vô địch
– 6 đội thua từ Vòng loại thứ ba và Vòng Play-off Champions nhóm không vô địch |
|
Vòng loại trực tiếp sơ bộ
(16 đội) |
8 đội nhì bảng từ Vòng bảng | 8 đội hạng 3 từ vòng bảng Champions League | ||
Vòng loại trực tiếp
(16 đội) |
– 8 đội đầu bảng từ Vòng bảng
– 8 đội chiến thắng từ Vòng loại trực tiếp sơ bộ |
Giải thưởng vô địch Europa League
Giải thưởng dành cho đội vô địch UEFA Europa League là gì? Không chỉ nhận được cúp và tiền thưởng, nhà vô địch sẽ còn được nhận thêm quyền lợi khác.
Cúp Europa League
Chiếc cúp UEFA, còn được gọi là Coupe UEFA, là chiếc cúp được UEFA trao hàng năm cho câu lạc bộ giành chức vô địch Cúp C2. Trước mùa giải 2009-2010, cả giải đấu và chiếc cúp đều được gọi là “Cúp UEFA”.
Trước khi giải đấu được đổi tên thành UEFA Europa League vào mùa 2009-2010, theo quy định của UEFA thì một câu lạc bộ có thể giữ chiếc cúp gốc trong một năm, sau đó phải trả lại cho UEFA. Sau khi đã trả lại, câu lạc bộ đó có thể giữ một bản sao với kích thước bằng 4/5 của chiếc cúp gốc. Nếu vô địch lần thứ 3 liên tiếp hoặc vô địch tổng cộng 5 lần, một câu lạc bộ có thể giữ lại chiếc cúp vĩnh viễn. Tuy nhiên, theo các quy định mới, chiếc cúp vẫn luôn được UEFA giữ.
Một chiếc cúp bản sao kích thước đầy đủ sẽ được trao cho mỗi câu lạc bộ vô địch. Còn câu lạc bộ giành được thành tích vô địch 3 lần liên tiếp hoặc tổng cộng 5 lần thì sẽ nhận được huy hiệu vô địch nhiều lần. Kể từ mùa giải 2016-2017, chỉ có câu lạc bộ Sevilla của Tây Ban Nha có được vinh dự được đeo huy hiệu này, khi trong năm 2016 đã đạt được cả hai thành tích trên cùng lúc.
Chiếc cúp bạc dành cho nhà vô địch Cúp C2
Chiếc cúp được nhà sản xuất Bertoni thiết kế và chế tạo cho trận Chung kết Cúp UEFA năm 1972. Nó nặng 15 kg và làm bằng bạc, được đặt trên một khối đá cẩm thạch màu vàng.
Tiền thưởng vô địch Europa League
Tương tự như UEFA Champions League, tiền thưởng mà các câu lạc bộ nhận được được chia thành các khoản cố định dựa trên sự tham gia và kết quả, và số tiền thay đổi phụ thuộc vào giá trị bản quyền truyền hình.
Đối với mùa giải 2019-2020, các câu lạc bộ tham dự vòng bảng Cúp C2 Châu Âu sẽ được nhận một khoản cơ bản là 2.920.000 euro. Mỗi chiến thắng trong vòng bảng sẽ nhận được 570.000 euro và một trận hòa sẽ được nhận 190.000 euro. Ngoài ra, đội đầu bảng sẽ nhận được 1.000.000 euro và đội nhì bảng sẽ nhận được 500.000 euro. Đến các vòng sau, mức thưởng sẽ càng tăng lên. Tính đến mùa giải 2019-2020, mức tiền thưởng cố định cho các câu lạc bộ tham dự Europa League sẽ ở mức như sau:
- Vòng sơ loại: 220.000 euro
- Vòng loại thứ nhất: 240.000 euro
- Vòng loại thứ hai: 260.000 euro
- Vòng loại thứ ba: 280.000 euro
- Bị loại ở vòng Play-off: 300.000 euro
- Tiền thưởng chung cho mỗi đội vòng bảng: 2.920.000 euro
- Mỗi trận thắng trong vòng bảng: 570.000 euro
- Mỗi trận hòa trong vòng bảng: 190.000 euro
- Đứng đầu bảng: 1.000.000 euro
- Đứng nhì bảng: 500.000 euro
- Vòng 32 đội: 500.000 euro
- Vòng 16 đội: 1.100.000 euro
- Vòng Tứ kết: 1.500.000 euro
- Bán kết: 2.400.000 euro
- Á quân: 4.500.000 euro
- Đội vô địch: 8.500.000 euro
Vô địch Europa League có được đá C1 không?
Vô địch bóng đá Europa League có được đá C1 không là câu hỏi mà không ít người hâm mộ thắc mắc. Trước kia thì đội vô địch Europa Cup chỉ được chắc chắn tham dự Cup UEFA mùa sau, nhưng gần đây, UEFA đã cho đội vô địch đặc quyền được tham dự Champions League từ vòng bảng.
Vào tháng 5 năm 2013, UEFA đã ban hành quyết định rằng bắt đầu từ mùa giải 2015-2016, đội bóng vô địch mùa trước sẽ đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League, ít nhất là được đá vòng play-off và bước vào vòng bảng nếu không có đội bóng nào tham dự bằng điều kiện dành cho đội bóng vô địch Champions League. Giới hạn tối đa trước đó của một quốc gia là 4 thì giờ đã tăng lên 5. Với giới hạn này sẽ gần như không còn điều đáng tiếc như trường hợp của Tottenham nói trên nữa. Lúc này, đội đứng thứ 4 ở giải quốc nội sẽ chỉ bị đưa xuống chơi ở Cup C2 nếu cả đội vô địch Champions League và Europa League đều là đại diện của quốc gia đó và cả hai đội này đều không lọt được vào top 4 của giải quốc nội.
GỢI Ý
Nếu bạn là người yêu thích bộ môn thể thao vua và đam mê cá cược bóng đá, hãy tìm hiểu thêm về TOP CÁC TRANG NHÀ CÁI CÁ ĐỘ BÓNG ĐÁ UY TÍN NHẤT VIỆT NAM!
Các con số thống kê về giải UEFA Europa League
Dù không phải là sân chơi danh giá như Champions League nhưng Cúp UEFA cũng là giải đấu có truyền thống, và đã có nhiều đội bóng cũng như cầu thủ lập được thành tích đáng nhớ. Hãy cùng điểm lại các đội bóng vô địch Cúp C2 và các con số thống kê thú vị nhất về giải đấu này.
Danh sách các đội vô địch Europa League qua các năm
Dưới đây là lịch sử vô địch của các đội bóng tại sân chơi hạng hai của bóng đá cấp câu lạc bộ ở Châu Âu:
Câu lạc bộ | Vô địch | Á quân | Năm vô địch | Năm á quân |
Sevilla | 5 | 0 | 2006, 2007, 2014, 2015, 2016 | — |
Liverpool | 3 | 1 | 1973, 1976, 2001 | 2016 |
Juventus | 3 | 1 | 1977, 1990, 1993 | 1995 |
Inter Milan | 3 | 1 | 1991, 1994, 1998 | 1997 |
Atlético Madrid | 3 | 0 | 2010, 2012, 2018 | — |
Borussia Mönchengladbach | 2 | 2 | 1975, 1979 | 1973, 1980 |
Tottenham Hotspur | 2 | 1 | 1972, 1984 | 1974 |
Feyenoord | 2 | 0 | 1974, 2002 | — |
Göteborg | 2 | 0 | 1982, 1987 | — |
Real Madrid | 2 | 0 | 1985, 1986 | — |
Parma | 2 | 0 | 1995, 1999 | — |
Porto | 2 | 0 | 2003, 2011 | — |
Chelsea | 2 | 0 | 2013, 2019 | — |
Anderlecht | 1 | 1 | 1983 | 1984 |
Ajax | 1 | 1 | 1992 | 2017 |
PSV Eindhoven | 1 | 0 | 1978 | — |
Eintracht Frankfurt | 1 | 0 | 1980 | — |
Ipswich Town | 1 | 0 | 1981 | — |
Bayer Leverkusen | 1 | 0 | 1988 | — |
Napoli | 1 | 0 | 1989 | — |
Bayern Munich | 1 | 0 | 1996 | — |
Schalke 04 | 1 | 0 | 1997 | — |
Galatasaray | 1 | 0 | 2000 | — |
Valencia | 1 | 0 | 2004 | — |
CSKA Moscow | 1 | 0 | 2005 | — |
Zenit Saint Petersburg | 1 | 0 | 2008 | — |
Shakhtar Donetsk | 1 | 0 | 2009 | — |
Manchester United | 1 | 0 | 2017 | — |
Sevilla là đội bóng thành công nhất lịch sử Cúp C2 Châu Âu
Nếu như Champions League vinh danh Real Madrid là câu lạc bộ vô địch nhiều nhất thì Tây Ban Nha lại có thêm Sevilla là đội bóng giành nhiều chức vô địch Cup C2 nhất. Không chỉ vậy, đây còn là đội duy nhất đạt được cả hai thành tích là vô địch 5 lần và vô địch liên tiếp 3 lần chỉ trong cùng một năm.
Danh sách các đội bóng vô địch Europa League theo quốc gia
Dưới đây danh sách các đội vô địch và giành ngôi á quân tính theo quốc gia trong lịch sử Cup C2 (nước Đức sẽ bao gồm cả các câu lạc bộ của Tây Đức còn Serbia sẽ bao gồm cả các câu lạc bộ của Nam Tư):
Quốc gia | Vô địch | Á quân | Tổng cộng |
Tây Ban Nha | 11 | 5 | 16 |
Anh | 9 | 7 | 16 |
Ý | 9 | 6 | 15 |
Đức | 6 | 8 | 14 |
Hà Lan | 4 | 3 | 7 |
Bồ Đào Nha | 2 | 5 | 7 |
Nga | 2 | 0 | 2 |
Thụy Điển | 2 | 0 | 2 |
Bỉ | 1 | 2 | 3 |
Ukraine | 1 | 1 | 2 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 1 | 0 | 1 |
Pháp | 0 | 5 | 5 |
Scotland | 0 | 3 | 3 |
Áo | 0 | 1 | 1 |
Hungary | 0 | 1 | 1 |
Serbia | 0 | 1 | 1 |
Tổng cộng | 48 | 48 | 96 |
Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất Europa League
Dưới đây là danh sách những cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử giải bóng đá Cúp C2 tính đến hiện tại (tháng 2/2020) và không tính các bàn thắng trong vòng loại:
Hạng | Cầu thủ | Số bàn | Số trận | Hiệu suất | Năm thi đấu | Câu lạc bộ |
1 | Henrik Larsson | 31 | 45 | 0,688 | 1996–2010 | Feyenoord (1),
Celtic (24), Helsingborg (6) |
2 | Radamel Falcao | 30 | 31 | 0,967 | 2010– | Porto (17),
Atlético Madrid (13) |
Klaas-Jan Huntelaar | 30 | 50 | 0,600 | 2004– | Heerenveen (5),
Ajax (11), Schalke 04 (14) |
|
4 | Dieter Müller | 29 | 36 | 0,805 | 1973–1984 | 1. FC Köln (25),
VfB Stuttgart (1), 1. FC Saarbrücken (3) |
5 | Aritz Aduriz | 26 | 39 | 0,666 | 2012–2018 | Valencia (0),
Athletic Bilbao (26) |
6 | Alessandro Altobelli | 25 | 58 | 0,431 | 1977–1989 | Inter Milan (21),
Juventus (4) |
7 | Shota Arveladze | 24 | 41 | 0,585 | 1994–2007 | Dinamo Tbilisi (1),
Trabzonspor (2), Ajax (10), Rangers (2), AZ (9) |
Kevin Gameiro | 24 | 54 | 0,444 | 2005– | Strasbourg (2),
Paris Saint-Germain (0), Sevilla (17), Atlético Madrid (2), Valencia (3) |
|
9 | Jupp Heynckes | 23 | 21 | 1,095 | 1971–1975 | Borussia Mönchengladbach (23) |
Vágner Love | 23 | 36 | 0,639 | 2004– | CSKA Moscow (20),
Beşiktaş (3) |
|
Dimitris Salpingidis | 23 | 67 | 0,343 | 1999–2015 | PAOK (13),
Panathinaikos (10) |
|
12 | Martin Chivers | 22 | 34 | 0,647 | 1971–1978 | Tottenham Hotspur (22) |
Jürgen Klinsmann | 22 | 36 | 0,611 | 1988–1998 | VfB Stuttgart (4),
Inter Milan (3), Bayern Munich (15) |
|
Dennis Bergkamp | 22 | 42 | 0,523 | 1988–2000 | Ajax (9),
Inter Milan (9), Arsenal (4) |
|
Karl-Heinz Rummenigge | 22 | 49 | 0,449 | 1977–1989 | Bayern Munich (13),
Inter Milan (9) |
Các cầu thủ ra sân nhiều nhất lịch sử Europa League
Dưới đây là danh sách những cầu thủ có nhiều lần ra sân nhất trong lịch sử bóng đá Cúp C2 tính đến hiện tại (tháng 3/2020):
Hạng | Cầu thủ | Số trận | Bàn thắng | Câu lạc bộ |
1 | Giuseppe Bergomi | 96 | 0 | Inter Milan |
2 | Frank Rost | 87 | 0 | Werder Bremen, Schalke 04, Hamburger SV |
3 | Pepe Reina | 69 | 0 | Barcelona, Villarreal, Liverpool, Napoli, Milan |
Walter Zenga | 69 | 0 | Inter Milan, Sampdoria | |
5 | Raúl García | 67 | 9 | Osasuna, Atlético Madrid, Athletic Bilbao |
Dimitris Salpingidis | 67 | 23 | PAOK, Panathinaikos | |
7 | João Pereira | 65 | 1 | Benfica, Braga, Sporting CP, Valencia, Trabzonspor |
8 | Jeremain Lens | 63 | 13 | AZ, PSV Eindhoven, Dynamo Kyiv, Fenerbahçe, Beşiktaş |
9 | Bibras Natkho | 62 | 11 | Rubin Kazan, Hapoel Tel Aviv, CSKA Moscow, Olympiacos, Partizan |
David Narey | 62 | 5 | Dundee United | |
Mladen Petrić | 62 | 19 | Grasshopper, Basel, Hamburger SV, Panathinaikos | |
Vincenzo Scifo | 62 | 11 | Anderlecht, Inter Milan, Bordeaux, Auxerre, Torino, Monaco | |
13 | Mehmet Topal | 61 | 6 | Galatasaray, Valencia, Fenerbahçe, İstanbul Başakşehir |
Daniel Carriço | 61 | 3 | Sporting CP, Sevilla | |
15 | Aron Winter | 60 | 5 | Ajax, Lazio, Inter Milan |
Atiba Hutchinson | 60 | 1 | Copenhagen, PSV Eindhoven, Beşiktaş | |
17 | Giuseppe Baresi | 59 | 1 | Inter Milan |
Rui Patrício | 59 | 0 | Sporting CP, Wolverhampton Wanderers | |
19 | Alessandro Altobelli | 58 | 25 | Inter Milan, Juventus |
Gonzalo Rodríguez | 58 | 5 | Villarreal, Fiorentina | |
Andreas Ulmer | 58 | 2 | Austria Wien, Red Bull Salzburg |
Hy vọng bài viết này đã giúp các bạn biết được Europa League là gì và hiểu thêm về lịch sử cũng như những điều thú vị xung quanh giải đấu này. Các bạn hãy tiếp tục theo dõi Congdongfifa để làm giàu thêm vốn kiến thức về bóng đá của mình!